Phân tích tác phẩm tây tiến

Cuộc kháng chiến chống Pháp đi qua để lại những dâu ấn ko thể phai mờ trong tâm hồn dân tộc. Đó là điểm hội tụ của muôn triệu tấm lòng yêu nước môi trường thử thách tinh thần đấu tranh ngoan cường, bất khuất của quần chúng. # ta. Cuộc kháng chiến còn làm nảy sinh biết bao hình ảnh đẹp mà đẹp nhất là hình ảnh người lính. Bên cạnh các bài thơ nức tiếng một thời như Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên.... Tây Tiến của Quang Dũng là 1 thi phẩm đặc sắc. Đoàn quân Tây Tiến quy tụ 1 lực lượng đa số đủ hầu hết tầng lớp giới trẻ từ khắp phố phường Hà Nội. Có phổ biến bạn trẻ học trò thuộc tầng lớp trí thức tiểu tư sản vừa rời trang sách nhà trường để tham gia vào trận đấu đấu của dân tộc. Tất cả các con người đấy ra đi có lí tưởng chung của dân tộc là tranh đấu bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Họ ra đi không hứa hẹn ngày trở về đương đầu có mục tiêu “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” Cái ảnh thần ấy là hào khí của cả một thế hệ, đã từng được phản ánh trong một bài hát thời đó:

Đoàn Vệ quốc quân 1 lần ra đi,

Nào mang sá chi đâu ngày trở về.     

    Trong đoàn người phấn chấn lên đường đi chiến đấu, trong đội ngũ những bạn trẻ trí thức ngày hôm qua mang khi là các tự vệ đấu tranh trên phố phường, chiến lũy Hà Nội, mà hôm nay đã có mặt trong đoàn quân Tây Tiến, tốt hoáng xuất hiện một khuôn mặt: Quang Dũng, tác fake của bài thơ. Như bao bạn trẻ trí thức của Hà Nội ngày ấy, Quang Dũng cũng nao nức gia nhập đoàn quân Tây Tiến với 1 niềm say mê của tuổi trẻ và 1 chút lãng mạn của các người bạn trẻ “nho sĩ quý tộc” ảnh hưởng trong Chinh phụ ngâm:

   Giã nhà đeo bức chiến bào

hay

Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.

   Cũng chính bởi thế mà những thanh niên như Quang Dũng sẵn sàng ưng ý đa số gian khổ, hi sinh để đấu tranh đến ngày chiến thắng cuối cùng. Vào Tây Tiến, Quang Dũng cùng sống và đấu tranh 1 thời kì với đơn vị này và sau đó chuyển sang doanh nghiệp khác. Một ngày ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng nhớ về các người đồng đội, nhớ về những ngày tháng chiến đâu gian nan nhưng hào hùng, nhớ đơn vị cũ, nhớ các con đường tiến quân mà ông cộng đơn vị từng đi qua. Nỗi nhớ ấy dần lớn lên trong Quang Dũng, bật ra thành hai câu thơ:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!  

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.

   Cuộc sống đấu tranh của Tây Tiến cộng những nơi mà công ty đã đi qua hẳn là những kỉ niệm vô cùng sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ. Hẳn 1 phần quãng đời Quang Dũng gắn bó sở hữu Tây Tiến là cuộc sống hoạt động trong vùng rừng núi. Bởi thế, thi sĩ nhớ về Tây Tiến là nhớ ngay về sông Mã, nhớ về rừng núi mang bao kỉ niệm vui buồn, ấn tượng về 1 miền rừng núi hà khắc đã để lại trong tâm hồn thi sĩ dấu ấn chẳng phai mờ. Vì thế, Quang Dũng nhớ về những tháng ngày đã qua với 1 tình cảm yêu thương lắm nhưng chẳng biết gọi lên chuẩn xác nỗi nhớ ấy. "Nhớ chơi vơi!" thể hiện 1 nỗi nhớ không với hình, ko mang lượng nhưng chừng như vô cùng nặng và mênh mang đầy ắp. Cái tâm cảnh nhớ ấy ta đã bắt gặp ko chỉ một lần trong ca dao:

Ra về nhớ bạn chơi vơi

hoặc:

Nhớ ai bồi hồi bồi hồi,

Như đứng đống lửa, như ngồi đống than.

   Quang Dũng lấy nỗi nhớ trong ca dao để tượng trứng thêm cho nỗi nhớ chơi vơi của mình, thật là chi tiết đắt giá! Ngay từ đầu bài thơ, ông đã miêu tả vùng rừng núi ấy thiết tha như thế làm cho người đọc chú ý ngay. Nhớ Tây Tiến, nhớ về sông Mã và núi rừng trùng điệp, nhớ con đường hành quân:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi      

Mường Lát hoa về trong đêm khá        

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm    

Heo hút cồn mây súng ngửi trời         

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.         

    Con đường hành binh điệp trùng có bao loại khắc nghiệt, dữ dội của mỗi vùng rừng biên ải. Đọc đoạn thơ, chưa nên suy ngẫm nội dung bên trong, chúng ta đã có thể hình dung ra con đường mà Quang Dũng miêu tả. Kết cấu đọan thơ cứ thanh bằng thanh trắc đan chéo nhau, trải dài ra miên man, bất tận như con đường xa thẳm khấp khểnh. Nhạc điệu êm ả, triền miên. Đoàn quân Tây Tiến đi trong lớp sương dày của núi rừng, hầu hết lung linh trong lớp sương khói mờ ảo, như thực, như mộng. Thế nhưng, mỗi địa danh đều gợi lên trong người đọc về hình ảnh của một xứ lạ, phương xa; nếu ta chỉ thử thay Sài Khao bằng một tên gọi khác là lớp sương huyền ảo đấy tan biến ngay. Đoàn quân Tây Tiến cất bước , trên con đường xa vạn dặm, sở hữu mẫu trắc trở, gập ghềnh của con đường. Đã dốc lên khúc khuỷu mà còn dốc thăm thẳm, đã ngàn thước lên cao rồi lại ngàn thước xuống thì đúng là tới độ cao chất ngất, oằn èo khó đi. Tất cả các đặc điểm đó thể hiện nổi cạnh tranh của đoàn quân Tây Tiến khi hành quân. Nó ghi lại ấn tượng về một miền rừng núi thật là dữ dội và khắc nghiệt. Quang Dũng mang những cách sử dụng từ vô cùng tinh tế mà cũng khôn xiết tinh nghịch: núi cao chạm mây nối thành cồn heo hút, và để bộc lộ chiều cao của núi thì chỉ ba chữ súng ngửi trời nghe thật ngộ nghĩnh. Phải chăng đấy là bí quyết gọi của quân nhân mà Quang Dũng ghi lại mang tư bí quyết 1 người trong cuộc? Dù sao, qua các từ ngữ, khía cạnh và bí quyết kết hợp thanh điệu của đoạn thơ cũng đã vẽ lên trước mát ta hình ảnh 1 miền rừng núi mà đoàn quân Tây Tiến đã từng đi qua. Có các câu thơ sử dụng toàn vần bằng cực kỳ hay:

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

   Sau lúc ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống người đội viên Tây Tiến như đứng trên núi cao mà nhìn xuống thung lũng phủ kín trong màn mưa. Những ngôi nhà như đang trôi bập bềnh trong làn mưa trắng. Thanh bằng của từng chữ trải ra, mênh mang, thể hiện dòng màn mưa phủ giăng thung lũng. Rừng núi trùng, ấn tượng về miền rừng núi cũng thật là hà khắc và dữ dội:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét     

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

    Chỉ hai câu thơ thôi mà gieo vào lòng ta toàn bộ các sự khắc nghiệt của miền rừng núi này - 1 miền núi rừng u ám sở hữu thú dữ bắt nạt đe con người. Hai chữ Mường Hịch đi với nhau nghe nặng như chân cọp. Có một điều kì lạ là nếu ta thay địa danh này bằng hai chữ khác như Châu Thuận chẳng hạn, thì hiệu lực câu thơ sẽ sút giảm ngay. Qua sự biểu hiện của Quang Dũng, 1 vùng núi rừng biên ải hiện lên mang mọi sự khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên. Đó là những cạnh tranh mà người chiến sĩ Tây Tiến cần vượt qua trên con đường hành quân. Cái trắc trở, gian khó cùa con đường Tây Tiến chợt làm cho chúng ta nhớ đến câu thơ của Lí Bạch:

Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên.

(Đường xứ Thục khó đi, khó hơn lên tận trời xanh).

   Đó là tất cả những gian khổ, hiểm nguy do tự nhiên đem tới mà người chiến sĩ Tây Tiến buộc phải chịu đựng.

Anh bạn dãi dầu ko bước nữa

Gục lên súng mũ, xem nhẹ đời!   

    Quang Dũng nhắc cái thực trên con đường Tây Tiến. Bao người đội viên đã nằm lại trên con đường hành quân. Có một điều lạ khiến cho toả sáng cả ý thơ là người bộ đội Tây Tiến đến lúc gục xuống vẫn cố gắng trong phong thái của người lính, chết rồi nhưng súng mũ vẫn còn đó, hành trang của người chiến sĩ vẫn còn trong tư thế tiếp tục cuộc hành trình. Bao cảnh gian khổ khó khăn, khắc nghiệt dữ dội của con đường hành quân, của thiên nhiên xứ lạ đã thử thách người đội viên Tây Tiến 1 bí quyết ghê gớm. Có các người bộ đội đã vượt qua được, và cũng ko ít những người buộc phải nằm lại phía sau. Người lính dãi dầu qua mưa nắng, đi từ khó khăn này đến gian khổ khác, chịu hết thử thách này tới thử thách thác mà nhường như vẫn chẳng nể hà; tới khi kiệt lực phải gục xuống thì cũng cố gắng gục xuống trong phong độ của người chiến sĩ.

    Cho dù Quang Dũng sở hữu kể sự thực về một vùng rừng núi che lấp con người, nhưng chính các phẩm chất cao đẹp của người đội viên đã đưa họ bay lên, vượt lên trên mẫu gian khổ và thiếu thốn. Quang Dũng là một người trong cuộc, rừng là chiến sĩ Tây Tiến, chính do vậy mà nhà thơ viết về cuộc sống gian khổ của người đội viên Tây Tiến 1 bí quyết vô cùng cảm động. Cái khắc nghiệt, khổ và dữ dội của một miền biên ải, các gian nan mà người đội viên Tiến cần chịu cất và các ấn tượng ko thể nào quên. Quang Dũng về người bộ đội Tây Tiến không như các thi sĩ khác; ông kể thật về sự khổ, hi sinh của người quân nhân 1 thời. Thế nhưng, hình ảnh anh lính Tây Tiến ko do vậy mà trở thành uỷ mị, trái lại càng thêm cao đẹp hơn. Miêu tả nét đội viên sở hữu dòng bi, nhưng là “bi tráng”. Nói loại gian khổ để đề cao thắng lợi nhắc hi sinh để nâng hình ảnh người lính lên 1 tầm cao thời đại cũng là 1 phương pháp “vẽ mây nảy trăng” trong hội hoạ vậy. Bởi thắng lợi mang giá trị gì lúc thắng lợi dễ dàng, ko mang hi sinh? Và hình ảnh người lính sẽ không thật cao đẹp trường hợp họ ko trải qua các thử thách gian truân của cuộc sống chống chọi khắc nghiệt.

Lao xao sóng vỗ ngọn tùng         

Gian nan là nợ anh hùng phải vay.

   Đó là một lời đúc kết kinh nghiệm về giá trị cùa chiến thắng, giá trị cả phẩm chất con người. Giữa bao mẫu gian khổ, khắc nghiệt đã thành ấn tượng niềm vui, dù ít ỏi, càng đáng nhớ hơn:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói ....

Trôi mẫu nước lũ hoa đong đưa.

   Dường như để trả trạng thái tâm hồn chúng ta về thế cân bằng sau khi chùng xuống trước cuộc sống tranh đấu của người chiến sĩ Tây Tiến, Quang Dũng hồi ức lại rộng rãi hình ảnh vui, ấm áp. Khói bếp, mùi thơm cơm nếp gợi dòng ấm êm của cuộc sống thanh bình, hạnh phúc. Sức nóng của nó đủ làm cho tâm hổn dần ấm lại sau các giây phút chứng kiến những gian khổ của người lính, hoa chúc là hình ảnh có sức khơi gợi, gợi cho ta loại cảm giác tươi vui như đang chứng kiến lễ hội đông vui. Hai liếng kìa em vừa ngỡ ngàng, vừa sung sưc nó diễn cả tâm hồn của người đội viên Tây Tiến. Trong cả đoạn thơ dìu dặt thành tiếng nhạc, tiếng khèn, phảng phất hình ảnh vui tươi của cuộc sống ) bình như chẳng biết đến chiến ưanh. Hình ảnh nhạc về Viên Chăn xây hồn là hình ảnh đẹp, thơ mộng, miêu tả tâm hồn phong phú của người quân nhân Tây Tiến . Họ đơn vị hội vui, sau bao thử thách khắc nghiệt của núi rừng dữ dội. Và mặc dù biết rằng sẽ còn liếp tục chịu chứa các gian truân, hi sinh, người bộ đội Tây Tiến vẫn múa hát, đùa vui, vẫn lạc quan yêu đời. Có thể chỉ ngày hôm sau một người nào đấy trong số họ bắt buộc nằm lại nơi núi rừng u tịch, nhưng bữa nay làm hồn họ vẫn mộng mơ, mơ đến các hình ảnh đẹp của thi và hoạ, xây hồn thơ. Và như vậy, họ sẵn sàng đón nhận mọi thử thách tiếp theo, coi đấy như một việc thường nhật mà đời quân nhân buộc phải chấp nhận. Không lên gân, không khiên cưỡng, toàn bộ gian khổ hi sinh đối có người bộ đội là chuyện binh thường và tất yếu, vì thế mà họ vẫn lạc quan, vẫn yêu đời, vẫn sống có lâm hồn trẻ trung, tươi mát. Cũng vậy mà người lính Tây Tiến với thể vẫn nhớ một dáng thuyền độc mộc, hoặc 1 bông hoa trên cái nước lũ. Những hình ảnh vô cùng bình thường ấy, ngỡ rằng sau bao sự thử thách về tinh thần, người quân nhân sẽ quên đi. Nhưng không, họ vẫn nhớ. Những hình ảnh ấy in sâu vàu tâm hồn ngựời quân nhân Tây Tiến, là nguồn động viên hối thúc họ chiến đấu, dù tiếp tục đón nhận những thử thách mới:

Tây Tiến đoàn binh ko mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm     

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới 

   Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm của đoàn quân ko mọc tóc! Có cách nhắc nào lại khơi dậy đa dạng cảm xúc đến thế! Như vậy thì hình ảnh của anh lính Tây Tiến với phát triển thành kì quái không? Không đâu! Đó chính là hình ảnh oai hùng của anh “Vệ trọc” nức danh một thời rét phải tóc rụng, vả lại, cái cách kể đoàn quân ko mọc tóc ấy phần nào cũng dựng phải hình ảnh người tráng sĩ với dáng dấp thật kiêu hùng và hiên ngang. Quân ko mọc tóc, quân lại xanh màu lá, màu xanh ấy sở hữu thể do cành lá trang, nhưng cốt tử là do official website sốt rét rừng. Những cơn sốt rét gớm ghê đã để lại ấn tượng sâu nhan sắc cho người chiến sĩ. Ta cảm động trước hình ảnh người sĩ Tây Tiến, và chợi nhớ tới hình ảnh người đội viên trong 1 số bài thơ đương thời:

Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật,   

Đâu còn tươi nữa những ngày qua.

   Người lính Tây Tiến cũng chịu chứa những cơn sốt rét ghê gớm ấy, thế nhưng, nó ko khiến cho nhụt đi ý chí của người chiến sĩ mà trái lại họ càng đấu tranh kiêu dũng hơn, kiên cường hơn, quân xanh màu lá nhưng vẫn dữ oai hùm. Cái khí phách hào hùng của người chiến sĩ Tây Tiến được ghi lại bằng sự so sánh cân bằng. Nếu ở khổ thơ trên, người lính chịu sự bắt nạt nạt của cọp thì họ cũng chống chọi mang tinh thần anh dũng của 1 chúa sơn lâm như thế. Câu thơ sau nâng đỡ câu thơ trước vút bay lên như ánh hào quang quẻ của phẩm chất người bộ đội Tây Tiến. Miêu tả khí thế tranh đấu hào hùng của người chiến thắng 1 sự so sánh như thế, Quang Dũng thực sự đã hiểu người quân nhân và đã hòa đồng với họ. Chiến đâu dũng cảm như thế, nhưng người lính Tây Tiến vẫn mang đời sống tâm Hà Nội khôn cùng tinh tế:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

    Người chiến sĩ ra đi từ các mái trường, chống chọi nhưng vẫn không quên hậu phương. Phía trước là trận đánh, tình cảm diễn tả qua giấc mộng, sở hữu thực, có mơ. Dáng kiều thơm gợi cần mẫu dáng vẻ yêu kiều của người con gái Thủ đô, chữ thơm được sử dụng có nghĩa như “sắc nước hương trời” vậy! Người chiến sĩ của Quang Dũng ra đi, mang theo cả tư thế hào hoa của người giới trẻ trí thức, mẫu phong độ đã giúp người đội viên sống bằng đời sống tâm lí phong phú sau mỗi trận đánh ác liệt.

    Cái cuộc sống tâm hồn ây là nguồn động lực giúp người bộ đội tiếp tục chiến đâu để giành lây độc lập, tự do cho Tổ quốc thân thương. Và cũng vì thế, người chiến sĩ chấp thuận sự hi sinh:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ       

Chiến trường đi chẳng nhớ tiếc ười xanh.

    Cứ thử khiến cho công tác tách hai câu thơ thành từng câu một. Ôi! Cái ấn tượng bi thảm đên vô cộng mà câu thơ đầu sở hữu tới thật mạnh mẽ. Không hiểu sao, cứ mỗi lần đọc đên câu thơ này là tôi lại chìm vào trong suy tưởng và nước mắt cứ rưng rưng! Trên con đường gập ghềnh xa thẳm của miền núi rừng biên cương đoàn quân Tây Tiến cứ đi và thỉnh thoảng có những con người phải tách ra khỏi đội hình. Những nấm chiêu tập của người đội viên mọc lên. Câu thơ thật là bi thảm. Nhưng câu thơ sau như một lực nâng vô hình, đã đưa câu thơ đầu lên cao, mẫu thảm giờ đây đã phát triển thành bi tráng. Nó bi hùng và hào hùng bởi Quang Dũng đề cập được 1 điều chủ chốt trong nhân cách của người lính: biết hi sinh, biết gian khổ nhưng vẫn cứ ra đi giải phóng quê nhà. Họ ra đi chẳng tiếc đời xanh, bởi quãng đời tươi đẹp đó đã hiến dâng cho một lí tưỏng cao đẹp: đấu tranh vì Tổ quốc. Họ ra đi và ngã xuống thanh thản không 1 chút vướng bận, mẫu chết được chẳng chú ý tựa lông hồng:

Áo bào thay chiếu anh về đất     

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

    Cách dùng từ áo bào của Quang Dũng khiến cho cho câu thơ phát triển thành cổ kính, áo bào chứ ko buộc phải chiến bào; người đội viên như các danh tướng thời xưa da ngựa bọc thây là 1 điều vinh quang. Cũng như thế, người bộ đội coi việc hi sinh trên trận mạc là một nghĩa vụ thiêng liêng. Người chiến sĩ Tây Tiến ngã xuống và thư thái về đất. Đất sinh ra anh và lại đón nhận anh về sau lúc khiến tròn nghĩa vụ. Anh về đất như một hành động tựu nghĩa của các anh hùng. Mở đầu bài thơ là hình ảnh sông Mã, kết thúc bài thơ vẫn là tiếng gầm thét của mẫu sông này. Dòng sông tiễn anh ra đi chống chọi lại đón anh về:

Tây Tiến người đi ko hẹn ước      

Đường lên thăm thẳm 1 chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy           

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.       

   Quang Dũng khẳng định lại một lần nữa mẫu ý chí quật cường ra đi là ko trở lại. Đó cũng là ý chí kiên tâm của cả 1 thế hệ, của một thời đại.

   Những gian khổ, hi sinh của cuộc kháng chiến là các kỉ niệm không thể quên. Sẽ ko bao giờ còn có lại thời gian gian khổ tới mức đấy và cũng hào hùng đến mức ấy. Và cũng khó có thể mang được bài thơ Tây Tiến thứ hai.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *